Hướng dẫn cách cúng bái, vái, lạy, lễ tổ tiên theo phong tục
Hướng dẫn cách cúng bái, nghi thức cúng gia tiên theo đúng nguyên tắc phong tục tập quán, định nghĩa của cúng, khấn, vái và lạy trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt Nam tùy theo các vùng miền.
Cúng Gia-Tiên
Khi cúng gia tiên thì chủ gia đình phải bầy đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên tắc “đông bình tây quả,” rượu, và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên.
Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên người quá cố, ngày tháng năm ta và tây, tên địa phương mình ở, tên mình và tên những người trong gia đình, lý do cúng và lời cầu nguyên, v.v.. Riêng tên người quá cố ta phải khấn rõ nhỏ. Sau khi khấn rồi, tuỳ theo địa vị của người cúng và người quá cố mà vái hay lạy. Nếu bố cúng con thì chỉ vái bốn vái mà thôi. Nếu con cháu cúng tổ tiên thì phải lạy bốn lạy. Chúng ta cần hiểu cho rõ về ý nghĩa của Cúng, Khấn, Vái, và Lạy.
1. Định nghĩa của Cúng, Khấn, Vái, và Lạy.
- Cúng: Khi có giỗ Tết, gia chủ bày hoa (bông), quả, nước, rượu, cỗ bàn, chén bát, đũa, muỗng (thìa) lên bàn thờ rồi thắp nhang (hương), thắp đèn, đốt nến (đèn cầy), khấn, vái hay lạy để tỏ lòng hiếu kính, biết ơn và cầu phước lành. Đây là nghĩa rộng của cúng. Trong nghĩa bình thường, cúng là thắp nhang (hương), khấn, lạy và vái.
- Khấn: Khấn là lời cầu khẩn lầm rầm trong miệng khi cúng, tức là lời nói nhỏ liên quan đến các chi tiết về ngày, tháng, năm, nơi chốn, mục đích buổi cúng lễ, cúng ai, tên những người trong gia đình, lời cầu xin và lời hứa. Sau khi khấn, người ta thường vái vì vái được coi là lời chào kính cẩn. Người ta thường nói “khấn vái” là vậy.
- Vái: Là đứng (hoặc quỳ), nhất là trong dịp lễ ở ngoài trời. Vái thay thế cho lạy ở trong trường hợp này. Vái là chắp hai bàn tay lại để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng xuống, sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi xuống và ngẩng lên. Hai tay chắp như lạy nhưng động tác đưa xuống nhanh hơn và chỉ đưa đến trước ngực, đầu cúi xuống khi vái (còn gọi là bái). Vái thì chỉ thực hiện sau khi lạy và chỉ 2 vái mà thôi (cho dù có thực hiện 2, 3 hay 4 lạy cũng thế). Tùy theo từng trường hợp, người ta vái 2, 3, 4 hay 5 vái (xem phần sau).
- Lạy: Lạy là hành động bày tỏ lòng tôn kính chân thành với tất cả tâm hồn và thể xác đối với người trên hay người quá cố vào bậc trên của mình. Lạy tức là chắp hai tay đưa cao quá trán và hạ từ từ xuống phía trước mặt đến ngang ngực. Trong một số trường hợp rất cung kính thì người lạy tiếp tục quỳ xuống, chống hai lòng bàn tay xuống đất rồi cúi đầu cho đến khi trán chạm đất thì hết quy trình 1 lạy. Nếu người lạy ở tư thế đứng lạy thì có thể kẹp thêm một nén nhang giữa hai lòng bàn tay úp vào nhau cũng được. Với động tác lạy, người lạy phải nhìn về phía trước, khi tay đưa xuống thì đầu đồng thời cúi xuống theo.
Có hai thế lạy: thế lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà. Có bốn trường hợp lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều mang ý nghĩa khác nhau.
Thế lạy của đàn ông
Thế lạy của đàn ông là cách đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp hai tay trước ngực và đưa cao lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay đang chắp xuống gần tới mặt chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay ra đặt nằm úp xuống, đồng thời quỳ gối bên trái rồi gối bên phải xuống đất, cúi rạp đầu xuống gần hai bàn tay theo thế phủ phục.
Sau đó cất người lên bằng cách đưa hai bàn tay chắp lại để lên đầu gối trái (lúc này đã co lên) và đưa về phía trước ngang với đầu gối chân phải đang quỳ để lấy đà đứng dậy. Chân phải đang quỳ cũng theo đà đứng lên để cùng với chân trái trở về thế nghiêm như lúc đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy (xem phần Ý nghĩa của Lạy dưới đây).
Khi lạy xong thì vái ba vái rồi lui ra. Có thể quỳ bằng chân phải hay chân trái trước cũng được, tùy theo thuận chân nào thì quỳ chân ấy trước. Cần nhớ rằng khi quỳ chân nào xuống trước thì khi chuẩn bị đứng dậy phải đưa chân đó về phía trước nửa bước và tì hai bàn tay đã chắp lại lên đầu gối chân đó để lấy thế đứng lên. Thế lạy theo kiểu này rất khoa học và vững vàng. Sở dĩ phải quỳ chân trái xuống trước vì thường chân phải vững hơn, dùng để giữ thăng bằng cho khỏi ngã. Khi chuẩn bị đứng lên cũng vậy: chân trái co lên đưa về phía trước được vững vàng là nhờ chân phải làm chuẩn.
Thế lạy phủ phục của các nhà sư thì khó hơn. Các thầy phất tay áo cà sa, đưa hai tay chống xuống đất và đồng thời quỳ hai đầu gối xuống luôn. Khi đứng dậy, các thầy đẩy hai bàn tay lấy thế đứng hẳn lên mà không cần tỳ tay lên đầu gối. Sở dĩ làm được như vậy là nhờ các thầy tập luyện hằng ngày mỗi khi cúng Phật. Nếu thỉnh thoảng các cụ mới đi lễ chùa, cần cẩn thận, vì không quen lạy mà bắt chước thế lạy của các thầy thì rất dễ mất thăng bằng.
Thế lạy của đàn bà
Thế lạy của các bà là ngồi trệt xuống đất, hai cẳng chân vắt chéo về phía trái, bàn chân phải ngửa lên để dưới đùi chân trái. Nếu mặc áo dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước và kéo vạt áo sau về phía sau để che mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai bàn tay để trước ngực rồi đưa cao lên ngang trán, giữ tay ở thế chắp đó mà cúi đầu xuống. Khi đầu gần chạm mặt đất thì đưa hai bàn tay đang chắp ra, đặt úp xuống đất và để đầu lên hai bàn tay. Giữ ở thế đó độ một, hai giây, rồi dùng hai bàn tay đẩy lấy thế ngồi thẳng lên, đồng thời chắp hai bàn tay lại đưa lên ngang trán như lần đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy cần thiết (xem phần Ý nghĩa của Lạy dưới đây). Lạy xong thì đứng lên, vái ba vái rồi lui ra là hoàn tất.
Cũng có một số bà áp dụng thế lạy bằng cách quỳ hai đầu gối xuống chiếu, ngồi mông lên hai gót chân, hai tay chắp lại đưa cao lên đầu rồi cúi mình xuống. Khi đầu gần chạm mặt chiếu thì xòe hai bàn tay ra úp xuống chiếu rồi đặt đầu lên hai bàn tay. Cứ tiếp tục lặp lại như vậy. Thế lạy này có thể làm đau ngón chân và đầu gối, đồng thời không mấy đẹp mắt.
Thế lạy của đàn ông có vẻ hùng dũng, tượng trưng cho dương. Thế lạy của các bà có tính cách uyển chuyển, tha thướt, tượng trưng cho âm. Thế lạy của đàn ông có điều bất tiện là khi mặc âu phục thì rất khó lạy. Hiện nay chỉ còn một số vị cao niên áp dụng thế lạy của đàn ông, nhất là trong dịp lễ Quốc Tổ. Còn đa phần, người ta có thói quen chỉ đứng vái mà thôi. Thế lạy của đàn ông và đàn bà là truyền thống rất có ý nghĩa của người Việt, vừa thành khẩn vừa trang nghiêm trong lúc cúng tổ tiên.
Nếu muốn giữ phong tục tốt đẹp này, nam nữ thanh niên cần có lòng tự nguyện. Muốn áp dụng thế lạy, nhất là thế lạy của đàn ông, phải tập luyện lâu mới nhuần nhuyễn được. Nếu đã có lòng, thì mọi việc đều có thể thành.
2. Ý nghĩa của Lạy và Vái
Số lần lạy và vái đều mang một ý nghĩa rất đặc biệt.
Theo quan niệm của người Việt Nam, việc vái lạy không chỉ dành cho đám tang, cúng tế hay lễ Phật ở chùa… mà còn dùng cho người sống nữa.
Ngày xưa, chắc các bạn từng nghe câu: “Lạy mẹ con đi lấy chồng”; đọc thơ Nguyễn Du cũng thấy có việc lạy người sống. Ở miền Bắc thời phong kiến, khi con dâu mới về nhà chồng, đều phải lạy (còn gọi là “lễ”) cha mẹ chồng. Hoặc khi làm lễ mừng thọ, người sống cũng lạy người sống.
Sau đây là phần trình bày về ý nghĩa của vái và lạy. Đây là phong tục đặc biệt của Việt Nam mà người Trung Hoa không có. Khi cúng, người Hoa thường chỉ lạy 3 lạy hay vái 3 vái mà thôi.
Ý nghĩa của 2 Lạy và 2 Vái
Hai lạy: Dùng cho người sống, như trong lễ cưới, cô dâu chú rể lạy cha mẹ. Khi đi phúng điếu, nếu là vai dưới của người quá cố (em, con cháu, hoặc người vào hàng con em…), thì nên lạy 2 lạy.
Hai vái: Nếu người quá cố còn quàn tại nhà tang lễ, những người vai trên của người quá cố (các bậc cao niên, hoặc thuộc hàng cha, anh, chị, chú, bác, cô, dì…), thì chỉ đứng để vái hai vái.
Ba vái
Sau khi lạy, thường vái thêm ba vái. Ý nghĩa của ba vái này chỉ là lời chào kính cẩn, không mang ý nghĩa nào khác.
Bốn vái
Khi quan tài đã được hạ huyệt (tức là sau khi chôn), người ta vái người quá cố 4 vái. Theo nguyên lý âm dương: khi chưa chôn, người quá cố vẫn được coi như còn sống nên ta lạy 2 lạy (tượng trưng cho âm dương nhị khí hòa hợp trên dương thế – tức là sự sống). Sau khi đã chôn, phải lạy 4 lạy.
Ý nghĩa của 3 Lạy và 3 Vái khi đi lễ Phật
Khi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng trưng cho Phật – Pháp – Tăng (xem bài “Nghĩa đích thực của Quy y Tam bảo”).
- Phật là giác: giác ngộ, sáng suốt, thông hiểu mọi lẽ.
- Pháp là chánh: điều chính đáng, đối lập với tà ngụy.
- Tăng là tịnh: trong sạch, thanh tịnh, không vướng bụi trần.
Đây là nguyên tắc chuẩn. Tuy nhiên, tùy mỗi chùa, mỗi nơi, hoặc theo thói quen, người ta có thể lễ Phật 4 hay 5 lạy. Trong trường hợp cúng Phật, nếu mặc Âu phục và cảm thấy khó lạy, ta có thể đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật.
Ý Nghĩa của 4 Lạy và 4 Vái
- Bốn lạy: Dùng để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ và thánh thần. Bốn lạy tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, bốn phương (Đông: thuộc dương, Tây: thuộc âm, Nam: thuộc dương, Bắc: thuộc âm), và tứ tượng (Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm). Nói chung, bốn lạy bao hàm cả cõi âm lẫn cõi dương, trong đó hồn ở trên trời và phách/vía ở dưới đất nương vào để làm chỗ trú ngụ.
- Bốn vái: Dùng để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ và thánh thần, trong trường hợp không thể áp dụng thế lạy.
Ý Nghĩa của 5 Lạy và 5 Vái
- Năm lạy: Ngày xưa dùng để lạy vua. Năm lạy tượng trưng cho ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), trong đó nhà vua tượng trưng cho trung cung – tức hành Thổ màu vàng ở giữa. Có ý kiến khác cho rằng năm lạy tượng trưng cho bốn phương (Đông, Tây, Nam, Bắc) và trung ương, nơi vua ngự.
- Ngày nay, trong lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, các vị trong ban tế lễ thường lạy 5 lạy vì Tổ Hùng Vương được tôn là vị vua khai sáng giống nòi Việt.
3. Ý nghĩa và nguyên tắc về lạy khi dự đám tang
- Khi người quá cố còn đó (dù đã liệm trong quan tài) thì vẫn được xem như còn sống, nên để lạy đúng thì chỉ lạy 2 lạy (và vái 2 vái).
- Một số gia đình có để bàn thờ Phật trước hương án có di ảnh người quá cố, thì người đi đám sẽ lạy bàn thờ Phật 3 lạy (và 2 vái), sau đó mới lạy trước bàn hương án có di ảnh người quá cố 2 lạy (như lạy người sống).
- Nếu đến thắp hương cho người quá cố đã được an táng rồi, thì lạy 4 lạy (và vái 3 vái).
4. Ý nghĩa việc đại diện gia đình lạy đáp lễ (lạy trả)
Việc lạy đáp lễ của người thân trong gia đình (con, vợ/chồng, anh chị em…) chỉ thực hiện khi quan tài người quá cố còn quàn tại nơi làm lễ (gia đình, nhà tang lễ…), chứ không thực hiện sau khi đã an táng.
Lạy đáp lễ tức là thay mặt người quá cố đáp lại lễ của người đến viếng. Do đó, khi người đi viếng lạy bao nhiêu lạy thì phải đáp trả bấy nhiêu lạy, không hơn không kém. Điều này không phải là “trả hết lễ” mà chỉ mang ý nghĩa “đáp lễ đầy đủ.”
Để dễ nhớ, có thể rút gọn như sau:
- Lễ Phật: Vái (hoặc lạy) 3 lần, tượng trưng cho Tam Bảo: Phật – Pháp – Tăng.
- Lễ vong (đã khâm niệm, chưa an táng): 2 lần, tượng trưng cho Âm Dương nhị khí.
- Lễ vong (đã chôn dưới mộ): 4 vái (hoặc lạy), tượng trưng cho Tứ Đại: Thổ, Thủy, Phong, Hỏa – với ý nghĩa thân tứ đại nay trả về cho tứ đại, trở về cát bụi.
Tóm lại: Lễ, lạy, cúng, vái là hình thức thể hiện lòng cung kính đối với Phật, Pháp, Tăng, gia tiên, thánh thần theo niềm tin của con người. Tuy nhiên, hành động trong đời sống mới là quan trọng. Bởi lẽ, nếu biết cúng, lễ, vái, lạy đúng nghi thức nhưng hành động trong cuộc sống đi ngược lại với tinh thần ấy, thì các hình thức Cúng, Lễ, Vái, Lạy cũng trở nên vô nghĩa. Bài viết này chỉ có tính chất tham khảo, dựa theo phong tục tập quán và truyền miệng, nhằm giúp mọi người hiểu ý nghĩa để thực hành một cách đúng đắn và thuận tiện.
Nguồn: Sưu tầm
❤️ An Phúc Viên – Không chỉ là nơi an nghỉ, mà còn là nơi gửi trọn niềm thương nhớ.
👉 Địa chỉ văn phòng: 6 Trần Quang Diệu, Vĩnh Hòa, Nha Trang.
👉 Hotline tư vấn: 0905 396 807.
🌍 Website: https://anphucvientt.com/